Với chủ trương nhất quán, phương châm chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, AEC ra đời sẽ là cơ hội để Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh cải cách thể chế, nâng cao năng lực xuất khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài và hiện đại hóa nền kinh tế, nhanh chóng bắt nhịp với xu thế và trình độ phát triển kinh tế của khu vực và thế giới. Đồng thời, việc AEC ra đời cũng chỉ rõ hơn về các thách thức mà doanh nghiệp (DN) Việt Nam phải đối mặt trong cạnh tranh về dịch vụ đầu tư của các nước ASEAN, sẽ dẫn đến một số ngành, DN phải thu hẹp sản xuất, thậm chí rút khỏi thị trường.
Với tầm nhìn đến 2020, tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 13 diễn ra tại Singapore, một bản Kế hoạch tổng thể về Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC Blueprint) đã chính thức được thông qua, trong đó xác định tự do hóa đầu tư là một trong những yếu tố quan trọng của Cộng đồng kinh tế này. Hiện nay, các hoạt động đầu tư trong ASEAN được điều chỉnh bởi Hiệp định đầu tư toàn diện ASEAN (ACIA), thay cho Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư ASEAN (AIGA) và Hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN (AIA), nhằm phù hợp hơn với điều kiện mới và nhu cầu hội nhập theo tầm nhìn ASEAN 2020.
Hiệp định khung về Khu vực đầu tư ASEAN (AIA) được kí kết ngày 07/10/1998, đánh dấu một bước ngoặt lớn trong tư duy và tầm nhìn của các nhà Lãnh đạo ASEAN về vai trò của đầu tư trong khu vực với mong muốn biến ASEAN trở thành một khu vực đầu tư đơn nhất, nhằm tăng cường dòng vốn đầu tư tự do trong khu vực thông qua việc minh bạch các quy tắc, thủ tục và các chính sách điều hành về đầu tư của các quốc gia.
Do sự thay đổi từ điều kiện kinh tế thế giới, từ tầm nhìn mới ASEAN 2020, cũng như từ hạn chế của AIA về phân biệt đối xử đối với nhà đầu tư nước ngoài tại ASEAN, Hiệp định đầu tư toàn diện (ACIA) đã được ban hành vào tháng 2/2012, trên tinh thần kế thừa AIA và AIGA. Theo đó, mục tiêu của ACIA là tạo dựng cơ chế đầu tư tự do, mở cửa ASEAN thông qua (1) từng bước tự do hóa đầu tư; (2) tăng cường bảo vệ nhà đầu tư và các khoản đầu tư của họ; (3) cải thiện tính minh bạch và khả năng dự báo của các quy tắc, quy định và thủ tục đầu tư; (4) xúc tiến, hợp tác, tạo môi trường đầu tư thuận lợi, thống nhất [1].
Hiệp định ACIA được áp dụng đối với ngành sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, thủy sản, lâm nghiệp, khai khoáng và khai thác đá cùng các dịch vụ liên quan. So với 2 Hiệp định trước, ACIA thể hiện sự tiến bộ hơn ở phạm vi điều chỉnh được mở rộng. Theo đó, ACIA dành ưu đãi như nhau cho các nhà đầu tư ASEAN và nhà đầu tư nước ngoài tại ASEAN (thay vì như Hiệp định AIA trước đây là dành ưu đãi cho nhà đầu tư ASEAN, sau đó mới đến nhà đầu tư nước ngoài tại ASEAN vào 2020) và các lĩnh vực, dịch vụ phát sinh trong tương lai cũng nằm trong phạm vi điều chỉnh của Hiệp định ACIA. Tất cả những nỗ lực này của ASEAN nhằm tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi, ưu đãi hơn, từ đó giúp tăng cường hoạt động đầu tư nội khối cũng như thu hút thêm những luồng vốn đầu tư từ bên ngoài ASEAN.
Ngoài 2 nguyên tắc trên, Hiệp định ACIA còn có một số nguyên tắc chính khác gồm: (1) Thúc đẩy tự do hóa, bảo vệ, xúc tiến và thuận lợi hóa đầu tư; (2) Tiếp tục duy trì quy tắc đối xử tối huệ quốc và đối xử ưu đãi giữa các thành viên; (3) Không hồi tố các cam kết đã đạt được trong AIA và AIGA; (4) Dành đối xử đặc biệt và ưu đãi cho các thành viên mới (LCMV); (5) Dành sự linh hoạt cho các nước thành viên trong vấn đề nhạy cảm; (6) Có sự đối xử nhân nhượng lẫn nhau giữa các nước thành viên [2].
Tình hình thu hút và sử dụng FDI nội khối của Việt Nam
Ngay sau khi Việt Nam tham gia Hiệp định thương mại tự do ASEAN (AFTA) vào tháng 1/1996, tốc độ thu hút FDI từ các nước ASEAN đã tăng nhanh chóng, đạt tới trên 547 triệu USD vào thời điểm giữa năm 1997. Nhưng một phần do những hạn chế về AIGA và AIA (như đã bàn luận ở trên), nên FDI từ ASEAN vào Việt Nam giai đoạn 1995-2005 không có gì nổi bật, thậm chí còn có xu hướng giảm, không như kỳ vọng. Mặt khác, do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 đã khiến các nước ở châu Á nói chung và ASEAN nói riêng bị ảnh hưởng rất lớn nên nguồn FDI nội khối cũng trở nên hạn chế. Tuy nhiên, bước sang năm 2008, nguồn FDI từ ASEAN vào Việt Nam đã có một bước tiến nổi bật với số vốn đầu tư đạt mốc hơn 2,7 tỷ USD. Điều này là do việc Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), cũng như hiệu quả từ những đổi mới chính sách về thu hút đầu tư của Việt Nam đã giúp khối lượng vốn FDI từ ASEAN tăng lên nhanh chóng. Giai đoạn 2009 - 2013, dòng FDI từ ASEAN vào Việt Nam đã tăng gấp 3 – 4 so với giai đoạn từ 1995 – 2005.
Tính đến tháng 9/2014, các nhà đầu tư khu vực ASEAN có 2.431 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký 51,83 tỷ USD, chiếm trên 21,4% tổng vốn FDI đăng ký tại Việt Nam. Quy mô vốn bình quân 1 dự án của ASEAN là 21,3 triệu USD/dự án, cao hơn so với mức bình quân chung 1 dự án đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (là 14,45 triệu USD/dự án).
Tuy nhiên, trong tổng vốn FDI ròng vào Việt Nam, FDI từ các quốc gia ngoại khối ASEAN vẫn chiếm tỷ trọng lớn hơn 3-5 lần so với FDI nội khối ASEAN vào Việt Nam. Cụ thể, trong hai năm gần đây 2012 và 2013, FDI ngoại khối chiếm lần lượt là 84,9% và 76,6%, trong khi FDI từ các nước thành viên ASEAN chỉ chiếm lần lượt là 15,1% và 23,4% trong tổng số FDI vào Việt Nam.
Trong các quốc gia ngoại khối ASEAN, thì Nhật Bản là quốc gia chiếm tỷ trọng mức FDI (lũy kế đến năm 2013) đầu tư vào Việt Nam lớn nhất với 20%; tiếp đó là Hàn Quốc và EU với 15%; Đài Loan 12% và Mỹ là 11%.
Phân theo ngành kinh tế: Hiện nay, các nhà đầu tư ASEAN đã đầu tư vào 18/18 ngành trong hệ thống phân ngành kinh tế quốc dân. Mặc dù ACIA đã cho phép tự do hóa đầu tư trong 5 lĩnh vực (như đã thảo luận ở trên) nhưng hiện nay, phần lớn FDI từ ASEAN vào Việt Nam mới chỉ tập trung trong các lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo; kinh doanh bất động sản; xây dựng; tài chính ngân hàng; văn hóa giáo dục… Các dự án quy mô lớn, kỹ thuật hiện đại, hay thuộc lĩnh vực công nghiệp dầu khí, viễn thông, điện tử tin học hiện nay vẫn chiếm lĩnh bởi các DN đến từ châu Âu, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan và HôngKông. Tính đến năm 2014, vốn đầu tư tập trung vào ngành công nghiệp chế biến chế tạo với 974 dự án và tổng vốn đầu tư là 21,7 tỷ USD (chiếm 40% tổng vốn đầu tư của khối ASEAN tại Việt Nam). Đứng thứ hai là ngành kinh doanh bất động sản với 93 dự án, tổng vốn đầu tư là 16,5 tỷ USD (chiếm 30% tổng vốn đầu tư khối ASEAN tại Việt Nam). Đứng thứ ba là ngành xây dựng với 169 dự án, tổng vốn đầu tư là 3,1 tỷ USD (chiếm 5,9% tổng vốn đầu tư khối ASEAN tại Việt Nam).
Phân theo hình thức đầu tư: Các nhà đầu tư ASEAN đầu tư chủ yếu vào 02 hình thức chính là hình thức 100% vốn nước ngoài và hình thức liên doanh. Trong đó hình thức 100% vốn nước ngoài thu hút được nhiều dự án nhất với 1.794 dự án, vốn đăng ký đạt 32,68 tỷ USD (chiếm 73,8% tổng số dự án và 63% tổng vốn đầu tư); hình thức liên doanh có 576 dự án, số vốn đăng ký là 17,67 tỷ USD (chiếm 23,69% tổng số dự án và 34,09% tổng vốn đầu tư). Còn lại là ba hình thức công ty cổ phần; hợp đồng hợp tác kinh doanh và hợp đồng BOT, BT, BTO.
Phân theo quốc gia đầu tư: Tính đến tháng 12/2014, có 8 nước ASEAN đầu tư FDI tại Việt Nam là Singapore, Malaysia, Thái Lan, Brunei, Indonesia, Phillipines, Lào và Campuchia. Tổng số dự án FDI lũy kế của 8 nước trên là 2.507 dự án với tổng vốn đầu tư lũy kế đạt 53 tỷ USD (chiếm 14% tổng số dự án và 20% tổng vốn đầu tư của cả nước). Dẫn đầu trong khu vực ASEAN đầu tư vào Việt Nam là Singapore với 1.353 dự án và 32,7 tỷ USD tổng vốn đầu tư (chiếm 53% tổng số dự án và 60% tổng vốn đầu tư của ASEAN tại Việt Nam). Singapore còn đứng thứ 3/101 nước có đầu tư FDI tại Việt Nam. Tiếp đến, Malaysia đứng thứ hai với 484 dự án và 10 tỷ USD tổng vốn đầu tư (chiếm 19% tổng số dự án và 22% tổng vốn đầu tư của ASEAN tại Việt Nam). Thái Lan đứng thứ ba với 371 dự án và 6,7 tỷ USD tổng vốn đầu tư (chiếm 14% tổng số dự án và 12% tổng vốn đầu tư của ASEAN tại Việt Nam). Các nước còn lại như Brunei, Indonesia, Philippines, Lào, Campuchia có tỷ lệ vốn đầu tư vào Việt Nam tương đối nhỏ trong khối ASEAN.
Nguồn vốn FDI của Singapore chủ yếu hướng vào các KCN chế xuất và lĩnh vực công nghệ, dịch vụ. Nhiều dự án đầu tư từ Singapore đã được tiến hành thực hiện trong những năm gần đây như Tập đoàn Sembcorp (Singapore) liên doanh với Tổng công ty Đầu tư và Phát triển công nghiệp Becamex IDC khởi công xây dựng dự án khu phức hợp đô thị, công nghiệp và dịch vụ tại Quảng Ngãi (VSIP Quảng Ngãi). Các nhà đầu tư Singapore gần đây cũng đã đầu tư khoảng 2 tỷ USD vào dự án Samsung Electronics Việt Nam ở tỉnh Thái Nguyên và 1 tỷ USD bổ sung vốn vào nhà máy Samsung Electronics Việt nam ở tỉnh Bắc Ninh. Ngoài lĩnh vực công nghiệp, các nhà đầu tư Singapore cũng đã thúc đẩy đầu tư vào các lĩnh vực dịch vụ như logistics, giáo dục, y tế. Có thể nhận ra rằng, các lĩnh vực mà các DN Singapore chú trọng đầu tư đều là mối quan tâm hàng đầu hiện tại của Việt Nam gồm các lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo, phát triển cơ sở hạ tầng KCN, bất động sản đô thị, du lịch, logistics.
Phân theo địa phương: Đến nay, các nhà đầu tư khối ASEAN đã có mặt tại 55/63 địa phương của cả nước, nhưng chủ yếu tập trung tại các thành phố và địa phương lớn nơi có điều kiện cơ sở hạ tầng thuận lợi và khu vực phát triển kinh tế năng động nhất của cả nước như Thành phố Hồ Chí Minh, Bà Rịa – Vũng Tàu, Ninh Thuận, Bình Dương, Hà Nội, Hải Dương. Trong đó, Thành phố Hồ Chí Minh đứng thứ nhất về thu hút dự án của khối ASEAN với 1.076 dự án và 14,9 tỷ USD vốn đầu tư (chiếm 27% tổng vốn đăng ký của khối ASEAN tại Việt Nam). Đứng thứ hai là Hà Nội với 400 dự án và 8,5 tỷ USD vốn đầu tư (chiếm 15% tổng vốn đăng ký của khối ASEAN tại Việt Nam). Đứng thứ ba là Bà Rịa – Vũng Tàu với 67 dự án và 6,1 tỷ USD vốn đầu tư (chiếm 11% tổng vốn đăng ký của khối ASEAN tại Việt Nam). Còn lại là các địa phương khác.
Kết quả đạt được: Việc thu hút FDI từ các nước ASEAN giúp bổ sung nguồn vốn đầu tư xã hội cho phát triển kinh tế - xã hội; góp phần giải quyết việc làm, nâng cao trình độ lao động; góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực hiện chiến lược CNH, HĐH; tăng cường hợp tác quốc tế và mở rộng hội nhập kinh tế; thúc đẩy cải cách, đổi mới quản trị và công nghệ sản xuất của DN.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được, việc thu hút FDI từ các nước ASEAN còn một số hạn chế như:
Thứ nhất, dòng vốn FDI từ ASEAN vào Việt Nam thời gian qua dẫn tới sự mất cân đối về phát triển ngành và vùng lãnh thổ. Các nhà đầu tư ASEAN chủ yếu lựa chọn những ngành sản xuất có tỷ suất lợi nhuận cao và những lãnh thổ “màu mỡ”, có cơ sở hạ tầng, giao thông đi lại thuận tiện trên đất Việt để rót vốn đầu tư.
Thứ hai, phần lớn các DN FDI của ASEAN tập trung vào khai thác lợi thế nhân công giá rẻ, nguồn tài nguyên sẵn có, thị trường tiêu thụ dễ tính của Việt Nam để gia công, lắp ráp tiêu thụ sản phẩm nội địa và xuất khẩu. Điều này có thể dẫn đến sự cạn kiệt nguồn tài nguyên, gây hủy hại môi trường, ảnh hưởng trực tiếp tới cuộc sống con người tại Việt Nam. Sự tranh chấp lao động trong các DN thuộc khu vực FDI nói chung và FDI nội khối ASEAN nói riêng còn diễn ra và chưa được xử lý kịp thời như tình trạng chậm trả lương, kéo dài thời gian lao động trong ngày, các chế độ lao động không được đảm bảo…
Thứ ba, mặc dù các dự án FDI đã đóng góp vào tác động tích cực của việc chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian qua nhưng sự thay đổi này là chưa rõ ràng, bởi chủ yếu các sản phẩm công nghiệp sản xuất là hàng gia công lắp ráp, có hàm lượng khoa học thấp. Do đó, giá trị gia tăng của những sản phẩm này không lớn.
Tuy lĩnh vực công nghiệp chế biến có nhiều dự án vượt trội, song nếu so với lĩnh vực kinh doanh bất động sản (với 97 dự án nhưng tổng vốn đầu tư đăng ký tới 16,6 tỷ USD, chiếm 30,4% tính đến tháng 6/2015) cho thấy vốn đầu tư mỗi dự án công nghiệp là chưa nhiều và chưa đạt được kết quả như kỳ vọng.
Các nhà đầu tư ASEAN đầu tư vào Việt Nam chủ yếu theo hình thức 100% vốn nước ngoài với 1.962 dự án, tổng vốn 35 tỷ USD, chiếm 64,3% tổng vốn đầu tư đăng ký. Trong khi đó, đầu tư theo hình thức liên doanh chỉ có 609 dự án (Số liệu tính đến tháng 6/2015). Điều này có nghĩa là sự liên kết giữa các DN Việt Nam và ASEAN chưa chặt chẽ. Sức lan tỏa của các dự án FDI đến DN Việt Nam không lớn, không chuyển giao được nhiều công nghệ kỹ thuật tiên tiến, kỹ năng quản lý.... Thậm chí, điều này còn gây ra hiệu ứng “chèn lấn” đối với các DN trong nước, có thể đẩy các DN trong nước cùng lĩnh vực ra khỏi thị trường.
Thứ tư, một số công nghệ lạc hậu được đưa vào Việt Nam thông qua những dự án FDI thời gian qua đã gây nguy hại tới môi trường tự nhiên, tạo sự lãng phí nguồn tài nguyên cũng như làm giảm tính hiệu quả so với kết quả mong đợi. Ngoài ra, sự “chậm chạp”, yếu kém trong quá trình chuyển giao công nghệ, khoa học kỹ thuật cũng làm giảm tính hiệu quả của các dự án FDI nội khối.
Một số DN FDI còn lợi dụng những chính sách ưu đãi về thuế, miễn thuế… để lách luật, né thuế khi hết thời gian ưu đãi bằng cách báo cáo lỗ, thực hiện hành vi chuyển giá như nâng chi phí đầu vào (tăng khống giá nguyên phụ liệu nhập khẩu), lợi dụng chính sách ưu đãi đầu tư nước ngoài về mức chi quảng cáo, tiếp thị để hạch toán chi phí hợp lý, giảm thiểu doanh thu thực tế…, gây thất thu lớn cho ngân sách nhà nước Việt Nam thời gian qua.
Bên cạnh những kết quả tích cực và một số hạn chế đã nêu ở trên, việc thu hút FDI từ các nước ASEAN vào Việt Nam hiện nay còn gặp phải một số khó khăn như: Việt Nam còn thiếu một khung khổ pháp lý về thu hút và sử dụng nguồn vốn FDI hiệu quả, đồng bộ và toàn diện; sức cạnh tranh của môi trường kinh tế đầu tư của Việt Nam còn kém so với khu vực thông qua các chỉ tiêu về chất lượng nguồn nhân lực, lao động có trình độ, tay nghề cao còn thiếu; cơ sở vật chất, giao thông đi lại chưa đồng đều, chỉ tập trung phát triển tại các thành phố lớn; hoạt động công nghệ khoa học còn thấp…; các DN trong nước chưa phát huy hết sức hấp dẫn của mình trong thu hút đầu tư nội khối ASEAN; sự yếu kém về cơ sở hạ tầng (đường bộ, đường sắt, cảng, hàng không), nhất là các vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, dẫn đến việc không thu hút được các dự án FDI vì chi phí đầu tư quá cao;...
Một số kiến nghị giải pháp
Việc ASEAN sẽ trở thành Cộng đồng kinh tế ASEAN vào năm 2015, với các Hiệp định chung điều chỉnh về đầu tư (Hiệp định đầu tư toàn diện ASEAN - ACIA), thương mại (Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN – ATIGA) và dịch vụ (Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ - AFAS) sẽ làm tăng sức hấp dẫn của khu vực này trong thu hút FDI. Các quốc gia thành viên sẽ có trách nhiệm lớn hơn trong việc đóng góp vào sự thịnh vượng chung của khối, do đó sẽ luôn tìm cơ hội và dành cho nhau những ưu tiên trong hợp tác đầu tư. Đây sẽ là cơ hội tốt để Việt Nam, cũng như các quốc gia thành viên khác, nhận được nhiều hơn nguồn vốn đầu tư nội khối ASEAN. Ngoài ra, trong quan hệ đầu tư, AEC sẽ là cầu nối để nhiều khoản đầu tư của các công ty đa quốc gia có trụ sở tại ASEAN đầu tư vào Việt Nam, đem lại cơ hội thu hút nguồn vốn FDI từ bên ngoài khối ASEAN nhiều hơn vào Việt Nam trong thời gian tới.
Việc Việt Nam trở thành nước thu nhập trung bình cho thấy những nỗ lực phát triển kinh tế - xã hội của Chính phủ Việt Nam trong thời gian qua, thể hiện ở sự tiến bộ về môi trường đầu tư kinh doanh; công nghệ kỹ thuật; chất lượng nguồn lao động; và các lĩnh vực xã hội khác. Qua đó, các tiêu chí để thu hút và lựa chọn những dự án FDI cũng được thay đổi theo hướng tích cực hơn, chặt chẽ hơn, tiến bộ hơn. Chính vì vậy, trong thời gian tới, việc tiếp nhận nguồn vốn FDI nói chung và FDI nội khối ASEAN nói riêng cần được chọn lọc có mục đích, chứ không thể thu hút và tiếp nhận bằng “mọi giá”, mà phải đảm bảo sự phù hợp với mục tiêu tăng cường chuyển giao công nghệ kỹ thuật tiên tiến, công nghệ “sạch” bảo vệ môi trường.
Trước bối cảnh cộng đồng kinh tế ASEAN thành lập vào cuối năm nay, mở ra cơ hội cho Việt Nam hội nhập sâu rộng hơn, và dễ dàng tiếp nhận các nguồn vốn FDI nội khối nhiều hơn, việc thu hút và chọn lọc nguồn FDI cần có một số định hướng chính như sau: nguồn vốn FDI nội khối vào Việt Nam cần được lựa chọn nhằm phát huy được tác động tích cực và hạn chế tác động tiêu cực, góp phần vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, cũng như mang lại lợi ích hợp pháp cho nhà đầu tư. Trong đó, chú trọng thu hút FDI không chỉ để tạo giá trị xuất khẩu đơn thuần mà phải có chuyển giao công nghệ, quản trị tiên tiến, từ đó nâng cao chất lượng kinh tế Việt Nam; những nguồn FDI nội khối cần thu hút tập trung tới những lĩnh vực cụ thể, ưu tiên cho hoạt động sản xuất tạo giá trị gia tăng hay ưu tiên cho dự án công nghệ cao, đặc biệt trong lĩnh vực phát triển công nghiệp phụ trợ, cần xây dựng mô hình liên kết ngang, hình thành DN vệ tinh, sản xuất linh kiện cho DN FDI xuất khẩu; gắn chặt thu hút FDI với quá trình tái cấu trúc nền kinh tế, phù hợp với từng ngành, khu vực các điều kiện kinh tế, địa lý, nhân lực, hướng vào ngành nghề, sản phẩm cụ thể, phục vụ quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm lôi cuốn các DN nội địa tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu, đồng thời khai thác tối đa tiềm năng và hiệu quả mà nguồn vốn FDI mang lại.
Giải pháp từ luật pháp, chính sách: Cần hoàn thiện hệ thống chính sách theo hướng đồng bộ hơn, phù hợp với tiến trình hội nhập; các luật mới ra đời cần hạn chế sự ảnh hưởng của các nhà đầu tư FDI, nhưng phải bảo vệ lợi ích chính đáng của các nhà đầu tư. Trong đó, cần cải cách thủ tục hành chính theo hướng đơn giản, gọn nhẹ, thông thoáng, vừa tạo thuận lợi cho DN, vừa phù hợp với cam kết trong AEC…
Giải pháp về quy hoạch: Cần quy hoạch hợp lý, khoa học, có thể phát huy được tính nội lực gắn với tiến trình hội nhập, nâng cao sức cạnh tranh và tính hiệu quả của nền kinh tế. Cần công bố rộng rãi các quy hoạch được phê duyệt và đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng các dự án đầu tư.
Đối với khía cạnh xã hội, cần xây dựng chính sách khuyến khích, thu hút FDI vào phát triển hạ tầng kỹ thuật, phát triển khu đô thị, xây dựng các công trình phúc lợi xã hội… Đối với khía cạnh sản xuất, cần tập trung nguồn vốn FDI hướng tới các lĩnh vực ưu tiên cho các hoạt động sản xuất tạo giá trị gia tăng hay ưu tiên cho các dự án đầu tư công nghệ cao. Đặc biệt, trong lĩnh vực phát triển công nghiệp phụ trợ, cần nghiên cứu đưa ra mô hình liên kết ngang, hình thành các DN vệ tinh, sản xuất linh kiện cho các DN FDI hướng tới xuất khẩu…
Giải pháp hỗ trợ DN: Các cơ quan hoạch định chính sách cần định hướng và khuyến khích DN trong nước đầu tư nhiều hơn nữa vào nghiên cứu, ứng dụng công nghệ mới nhằm tăng cường sức cạnh tranh với các đối thủ trong ASEAN; khuyến khích đầu tư phát triển công nghiệp hỗ trợ, đầu tư các vùng trồng nguyên liệu nhằm tăng tỷ lệ nội địa hóa nguyên phụ liệu và giảm thiểu sự phụ thuộc vào nhà cung cấp bên ngoài. Với những nguyên phụ liệu cần phải nhập khẩu, cần ưu tiên nhập khẩu từ các nước ASEAN để đạt được yếu tố “nội khối”; xây dựng trung tâm nghiên cứu và phát triển công nghệ, đẩy mạnh chuyển giao công nghệ và ứng dụng công nghệ tiên tiến từ các DN FDI vào DN trong nước. Hoàn thiện khung pháp lý về mua bán – sáp nhập có yếu tố của nước ngoài, qua đó đẩy mạnh gắn kết về công nghệ, lao động, thị trường và quản trị DN…
Giải pháp về cơ sở hạ tầng: Phát triển đồng bộ cơ sở hạ tầng, quy hoạch hợp lý các KCN tại địa phương, tăng cường thu hút FDI vào KCN, KCX. Cần có giải pháp khuyến khích và thu hút FDI vào các địa phương trong cả nước; huy động tối đa nguồn lực để đầu tư phát triển nâng cao kết cấu hạ tầng; cần thu hút thêm các nguồn vốn xã hội hóa để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, ưu tiên vấn đề cấp thoát nước và vệ sinh môi trường, hệ thống đường cao tốc, đường sắt, đường bộ nối các cảng biển lớn…
Giải pháp xúc tiến đầu tư: Cần nhiều hơn các chính sách thu hút FDI chủ động, không thụ động ngồi chờ; đẩy mạnh tuyên truyền để DN tích cực hơn trong việc hội nhập và nắm bắt cơ hội, đón đầu dòng vốn FDI nội khối từ ASEAN; nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến đầu tư; tăng cường cơ quan đại diện xúc tiến đầu tư tại một số địa bàn trọng điểm. Phối hợp với các bộ ngành và địa phương tiếp tục rà soát, xây dựng danh mục bổ sung các dự án kêu gọi đầu tư với tiêu chí rõ ràng cụ thể.
Giải pháp về nguồn nhân lực: Nâng cao năng suất chất lượng nguồn lao động cũng là yêu cầu quan trọng trong thu hút các dự án FDI nội khối ASEAN, Việt Nam phải cải thiện nguồn nhân lực để có thể duy trì và tăng cường thêm các dự án FDI.
Giải pháp về phối hợp quản lý trong quản lý nhà nước: Để giúp các DN FDI tháo gỡ vướng mắc thủ tục hành chính nhanh chóng, cần có sự phối hợp can thiệp giữa Trung ương và địa phương trong việc cấp phép và quản lý các dự án đầu tư nước ngoài. Đẩy mạnh việc phân cấp quản lý giữa Trung ương và địa phương trong công tác kiểm tra, giám sát thực hiện Luật của các địa phương, tránh ban hành chính sách ưu đãi vượt khung; rà soát lại tính khả thi và tính phù hợp của các dự án FDI chưa thực hiện; tăng cường năng lực đào tạo, bồi dưỡng các bộ quản lý đầu tư trực tiếp nước ngoài, nâng cao năng lực thực thi và hiệu quả quản lý nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài của cơ quan chức năng.
Về phía DN: Ngoài các giải pháp để thúc đẩy đầu tư nước ngoài thì các DN trong nước phải chuẩn bị kỹ cho hội nhập. Nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm và của DN trong nước nhằm hấp thụ được dòng vốn đầu tư nước ngoài, gắn kết chặt chẽ, học hỏi, tận dụng cơ hội từ khu vực này. Các DN trong nước cần chủ động trong việc tham gia sản xuất, đa dạng nguồn cung nguyên liệu nhằm tận dụng ưu đãi từ các hiệp định thương mại; đồng thời, có chiến lược nghiên cứu, nắm bắt thị hiếu tiêu dùng để cung cấp các sản phẩm thị trường cần, nâng cao giá trị gia tăng cho sản phẩm xuất khẩu.
Các DN cần tăng cường xúc tiến thương mại, quảng bá hình ảnh của DN, sản phẩm Việt Nam. Từ đó, nâng cao khả năng thu hút sự hợp tác, liên kết kinh doanh từ các DN nước ngoài trong khối ASEAN hay các công ty, tập đoàn đa quốc gia có trụ sở tại ASEAN vào Việt Nam; cần phối hợp với nhau, cùng phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ, góp phần tạo nên môi trường đầu tư hấp dẫn thu hút FDI nội khối từ ASEAN...
Trong thời gian qua, nguồn vốn FDI nội khối ASEAN đã trở thành một trong những nguồn lực đầu tư quan trọng, góp phần vào những thành công trong phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam trên cả góc độ về quy mô cũng như chất lượng nguồn vốn đầu tư FDI. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực đó, vẫn tồn tại nhiều hạn chế và bất cập do nguồn vốn FDI mang lại liên quan tới vấn đề môi trường, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu vùng, cơ cấu ngành, tranh chấp lao động… Ngoài ra, khối lượng nguồn FDI nội khối vào Việt Nam thời gian qua cũng chưa tương xứng với tiềm năng hợp tác của Việt Nam với các quốc gia thành viên trong khu vực ASEAN. Do đó, thời gian tới, Chính phủ cũng như DN Việt Nam cần xây dựng và ban hành nhiều hơn nữa các giải pháp nhằm thu hút, sử dụng và quản lý hiệu quả hơn nguồn vốn FDI nội khối này, trong đó những yếu tố then chốt cần được chú trọng chính là một hệ thống thể chế, chính sách, pháp luật hoàn chỉnh; chất lượng nguồn nhân lực được nâng cao; hệ thống cơ sở vật chất, giao thông được đầu tư xây dựng; môi trường đầu tư cạnh tranh, minh bạch và công bằng giữa các DN trong và ngoài nước./.