Skip Ribbon Commands
Skip to main content

Một số nét tổng quan liên quan đến QHXD các KCN Việt Nam

Hợp tác - Đầu tư  
Một số nét tổng quan liên quan đến QHXD các KCN Việt Nam
(Bài viết có tham khảo một số nội dung tại trang Web của Bộ Xây dựng, Bộ KHĐT)

Qua hơn 30 năm đổi mới, tầm vóc và vị thế của Việt Nam đã có nhiều thay đổi. Việt Nam đã đạt được những kết quả quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội và đang hướng tới các mục tiêu, trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại gắn với nền kinh tế tri thức… Quy hoạch xây dựng các KCN có vai trò và vị trí hết sức quan trọng trong chiến lược phát triển KT-XH của quốc gia nhằm định hướng quy hoạch xây dựng các khu công nghiệp Việt Nam phát triển đồng bộ với hệ thống đô thị - nông thôn quốc gia, đảm bảo phát triển bền vững.

Theo UNIDO (2015), trong số hơn 1.000 khu kinh tế (KKT) tại các quốc gia ASEAN thì có tới 893 KCN, 84 KKT đặc biệt, 25 Khu công nghệ cao (KCNC), chỉ có hai khu công nghệ sinh học và một công viên sáng tạo. Tại Việt Nam, theo số liệu của Vụ Quản lý các KKT – Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đến hết năm 2018, toàn quốc có 326 KCN được thành lập với tổng diện tích tự nhiên hơn 93 nghìn ha, chiếm 68%. Trong đó, có 250 KCN đã đi vào hoạt động với tổng diện tích đất tự nhiên 68 nghìn ha và 76 KCN trong giai đoạn đền bù giải phóng mặt bằng và xây dựng cơ bản với diện tích tự nhiên là 25 nghìn ha. Đối với KKT, có 18 KKT ven biển đã được thành lập với tổng diện tích tự nhiên mặt đất và mặt nước hơn 845 nghìn ha. Lũy kế đến hết năm 2018, các KCN, KKT trên cả nước thu hút được khoảng 7.500 dự án đầu tư trong nước với tổng số vốn đăng ký ước đạt gần 970 nghìn tỷ đồng và khoảng 8.000 dự án có vốn đầu tư nước ngoài với tổng vốn đầu tư đăng ký ước đạt hơn 145 tỷ USD. Tỷ lệ lấp đầy các KCN đạt 73%.

Hệ thống KCN còn góp phần hiện đại hóa hệ thống cơ sở vật chất hạ tầng, đồng thời góp phần củng cố an ninh, quốc phòng. Có 218/250 KCN có nhà máy xử lý nước thải tập trung hoạt động với tổng công xuất XLNT đạt hơn 950.000 m3/ngày đêm. Lao động trong các KCN khoảng trên 3 triệu lao động, trong đó nữ chiếm 60%, một số ngành như da giày, dệt may, chế biến thủy sản có doanh nghiệp tỷ lệ nữ chiếm tới 80% đến 90%.

Tuy nhiên, hệ thống các khu công nghiệp hiện nay còn tồn tại nhiều bất cập, ảnh hưởng tới tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển bền vững. Cụ thể về hệ thống hạ tầng kỹ thuật, số nhà máy xử lý nước thải trong khu công nghiệp mới đạt 88% thấp hơn so với chỉ tiêu đặt ra năm 2020 là 100%. Nhiều địa phương, các quy định về môi trường, công nghệ còn lỏng lẻo, tiêu chí “lấp đầy" được đặt lên hàng đầu để giải quyết lao động thất nghiệp. Thực trạng nhu cầu cung cấp điện, nước cho sản xuất còn thiếu, hiệu suất sử dụng năng lượng trong nhà máy còn thấp. Hệ thống công viên tập trung, cây xanh cách ly, chủng loại cây bố trí trong KCN, nhà máy chưa hợp lý, hạn chế tác dụng điều hòa không khí và cảnh quan. Việc tận dụng nước mưa, nước sản xuất cho tưới cây, vệ sinh trong KCN chưa được triển khai phổ biến. Xây dựng mô hình KCN sinh thái hướng tới mô hình KCN bền vững còn hạn chế. Việc chuyển đổi các KCN truyền thống sang mô hình KCN sinh thái, giai đoạn 1 gắn các giải pháp sử dụng hiệu quả tài nguyên và sản xuất sạch đã tiết kiệm mỗi năm hơn 22.000MW giờ điện, 600.000m3 nước sạch… trị giá hơn 6,5 triệu USD.

Giai đoạn 2010-2015, các địa phương đã đăng ký 110 dự án nhà ở cho công nhân, 27 dự án được khởi công, 9 dự án hoàn thành. Tỷ lệ công nhân lao động có nhà ở do doanh nghiệp và KCN xây dựng tăng 10,3% so với 10 năm trước đây. Do quy mô lớn, vốn đầu tư cao, nhưng thu hồi vốn chậm, hiệu quả tháp, rất ít doanh nghiệp mặn mà đến việc xây dựng nhà ở cho công nhân. Việc huy động vốn đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng khu công nghiệp còn khó khăn… Mặc dầu có những chuyển biến tích cực nhưng vấn đề nhà ở, hạ tầng xã hội và đời sống công nhân trong khu công nghiệp đặt ra hết sức cấp bách. Tỷ lệ lao động nhập cư hiện nay ở các KCN khoảng trên 50%, địa phương có tỷ lệ lao động nhập cư cao như TP.HCM, Đồng Nai, Bình Dương, lao động ngoại tỉnh chiếm tới 70%, Hiện có khoảng 55% công nhân trong các KCN tập trung phải thuê nhà trọ. Một số địa bàn xung quanh các KCN đang quá tải về hạ tầng, hệ thống an sinh xã hội chưa đáp ứng kịp, nhất là trường học từ mầm non đến trung học và cơ sở khám, chữa bệnh. Số học sinh các cấp từ mẫu giáo đến trung học đều vượt chuẩn, thậm chí có nơi phải bố trí học ba ca. Các dịch vụ thiết yếu phục vụ công nhân như chợ, siêu thị, khu vui chơi giải trí… chủ yếu mang tính tự phát, chưa được đầu tư bài bản gắn với địa bàn và nhu cầu thực tế của người dân. Sự phát triển quá nhanh có phần thiếu kiểm soát về quy mô, ranh giới đô thị khiến cho cấu trúc đô thị có phần bất ổn. Nhiều khu vực trước đây được xác định thuộc ngoại vi như các khu công nghiệp, khu xử lý chất thải, nghĩa trang, tuyến đường sắt và nhà ga đường sắt… nay bị bao vây bởi các khu đô thị mới. Tại nhiều đô thị có các khu công nghiệp phát triển ở khu vực ven đô thì hệ thống nhà ở công nhân thiếu tiện ích đô thị, hạ tầng xã hội vì nằm xa các trung tâm đô thị.

Tỷ lệ lấp đấy ở nhiều KCN còn thấp, đặc biệt ở các tỉnh miền núi phía Bắc và Trung Bộ vẫn dưới 30%. Hạ tầng kết nối đa phương tiện thiếu đồng bộ, mất cân đối khi vận tải đường bộ chiếm tới  77% tổng lượng hàng hóa vận chuyển của cả nước. Tiêu chuẩn kỹ thuật hạ tầng, nhà xưởng còn thấp…